(Báo Thanh niên) Thuộc khuôn viên Trường ĐH Bách khoa TP.HCM (ĐH Quốc gia TP.HCM), phòng thí nghiệm của PGS-TS Lê Thị Kim Phụng (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu công nghệ lọc hóa dầu) và cộng sự sở hữu một không gian xanh mát với sự hiện diện của cây xanh. Đó là nơi mà hằng ngày nhà khoa học nữ nuôi dưỡng tâm huyết với con đường tìm kiếm những giá trị tiềm ẩn từ những thứ tưởng như vứt đi: các phế phẩm nông nghiệp, để tạo ra nguồn nhiên liệu sạch, có nguồn gốc sinh học, phù hợp triết lý tôn trọng tự nhiên để phát triển bền vững.

Trước khi quan tâm đến các phế phẩm nông nghiệp như một đề tài khoa học, chị có ký ức nào gắn liền với tâm thức “thương nhớ đồng quê”?
Bố mẹ tôi tuy không phải là nhà nông nhưng suốt tuổi thơ tôi gắn liền với đồng ruộng theo những bước “du canh du cư” của gia đình: hết Biên Hòa tới Phước Long, lại Đồng Nai, Bình Thuận… Ngày đó ở đấy, gần như nhà ai cũng được phân cho một sào đất để cải thiện, trẻ con chúng tôi cứ ngoài giờ học là hào hứng vứt cặp, mải miết ra vườn hái bắp, trỉa đậu. Tới mùa nhổ đậu, học sinh còn được nhà trường cho nghỉ học để giúp ba mẹ thu hoạch, ngày hè thì làm cỏ sân trường, hoặc kéo nhau đi xem người lớn gặt đập lúa. Tôi mê rơm rạ chắc cũng là từ đó…
Ký ức đồng quê trong tôi vì thế luôn là một cái gì đó rất đỗi đầm ấm, thân thương về một thời nghèo mà không thấy cực, khó mà không thấy buồn, chỉ thấy toàn vui là vui.



PGS-TS Lê Thị Kim Phụng cùng nhóm nghiên cứu các sản phẩm aerogel composite và vật liệu khác từ chất thải rắn
Đào Ngọc Thạch
“Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no/Riêng cái ấm nồng nàn như lửa/Cái mộc mạc lên hương của lúa/Đâu dễ chia cho tất cả mọi người…“. Hẳn chị vẫn còn nhớ cái “hơi ấm ổ rơm” trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Duy mà chúng ta từng học? Và rơm rạ đã mang hơi ấm nào tới cho hành trang làm nghề của chị?
Tôi có biết và rất thích bài thơ đó. Hồi đi học, tôi học rất khá môn văn, không hiểu sao về sau lại theo khoa học tự nhiên.
Rơm rạ là thân thuộc, hơi ấm của sự thân thuộc, là nơi mà học trò thôn quê cứ đi học về là có thói quen quẳng cặp lăn vào đụn rơm nào đó bên đường để đùa nghịch; những món ăn ngày bé như miếng cơm cháy, niêu cá kho tiêu… cũng đượm mùi rơm rạ; là khói đốt đồng gợi nhắc quê hương trong ký ức những người con xa quê… Mỗi nông dân có thể nói là một “nhà khoa học”, khi họ luôn nắm bắt được cốt lõi của tự nhiên và luôn biết cách tận dụng những thứ tưởng như bỏ đi: trầu với cau là cả một bài toán dược liệu; rơm rạ khi đốt đồng vừa giúp tạo thêm chất mùn, trả lại mỡ màu cho đất, lại vừa giúp loại bỏ những vi sinh vật có hại cho cây trồng. Nhưng rơm rạ khi đốt lên ở quy mô lớn cũng có thể gây ô nhiễm không khí cho làng quê hay những khu đô thị ven đô vì sản sinh ra một lượng khí thải CO2.
Đó là lúc những nhà khoa học nhiều suy tư về nghề nông như chúng tôi “vào việc”. Rơm rạ, vỏ trấu…, hay rộng hơn là các phế phẩm nông nghiệp, những thứ mà chúng ta vẫn quen vứt đi khi ăn hay chế biến hoa quả: vỏ táo, đài dứa, vỏ dứa, vỏ măng cụt… (trong khi nó chứa tới 70 – 80% hàm lượng, chất kháng ô xy có lợi cho sức khỏe), vừa lãng phí vừa gây áp lực cho môi trường. Những thứ tưởng chừng như vô giá trị đó, khi soi chiếu dưới cái nhìn khoa học, đều có thể cho ra những nguyên liệu sạch để giúp tạo ra những chuỗi sản phẩm có nguồn gốc sinh học – một xu hướng tất yếu khi nguồn nhiên liệu hóa thạch dần cạn kiệt và tạo ra những hệ lụy khôn lường cho môi trường. Bạn có tin rằng một cái đế giày hay lót giày cũng có thể góp phần làm trái đất nóng lên không? Không phải ngẫu nhiên mà các đơn đặt hàng đến từ các thương hiệu giày uy tín của châu Âu đã đưa ra khuyến nghị rằng, tối thiểu phải có 30% nguyên liệu được sử dụng trong mỗi đôi giày phải có nguồn gốc sinh học. Cụ thể, chất liệu silica để sản xuất đế giày, trước đây có nguồn gốc hóa thạch, giờ được yêu cầu phải từ nguồn gốc sinh học…
Suy cho cùng thì cái gì thuộc về thiên nhiên đều phải trả lại cho thiên nhiên. Đường hướng phát triển sản phẩm mà tôi và cộng sự theo đuổi cũng là nằm trong quy luật đó. Bản chất tự nhiên là vậy, việc của chúng ta là trình bày đúng sự thật về nó, đưa tri thức vào để lần ra cốt lõi và gọi đúng tên của nó. Đó là lý do tôi tâm đắc với câu danh ngôn này: “Giá trị của sáng tạo không phải là sự mới mẻ, đó là sự thành thật” (Thomas Carlyle).

Thiên nhiên và khoa học về nó đã dạy chúng ta điều gì?
Mọi cái được sinh ra trên đời này đều có lý do của nó. Đúng như câu thơ nổi tiếng: “Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời/Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”. Tới giờ này, sau một chặng dài miệt mài tìm kiếm các giá trị bị bỏ qua, tôi tin rằng chẳng có gì trên đời này là thừa cả, nếu như chúng ta biết cách trân trọng nó, gạn lọc những điều tốt đẹp nhất của nó và biết điều hướng nó tới miền sáng cần thiết cho vòng đời tuần hoàn của nó… Khi dạy học trò cách làm ra những sản phẩm giá trị từ những thứ bỏ đi, tôi hạnh phúc trao tới các em một bài học nhỏ: đừng bao giờ bỏ qua những giá trị chưa hiển thị hoặc bị khuất lấp. Giá trị nằm trong chính mắt nhìn và bộ lọc của người dùng. Biết đủ là đủ, nhưng biết thiếu, biết thừa, cũng là đủ!
Chị không ủng hộ những chỉnh sửa lỗi?
Chỉnh sửa lỗi là cần thiết, chẳng hạn trong công nghệ gien, ở một khía cạnh nào đó. Hay như một trong những hướng nghiên cứu của tôi là hiện đại hóa các bài thuốc Đông y, thì bên cạnh tôn trọng những kinh nghiệm dân gian, cũng cần biết loại bỏ những hợp chất không tốt… Nhưng về cơ bản, tôi luôn tâm niệm: hiểu biết về khoa học là để phát triển và vận hành tốt hơn, chứ đừng loại bỏ, đừng làm tự nhiên mất cân bằng, đừng đi ngược những quy luật phát triển của tự nhiên.

Đào Ngọc Thạch
Đời sống, nói cho cùng, vẫn là phép cân bằng giữa thừa và thiếu. Chị có chắc là không có gì thừa trên đời này?
Thừa thiếu thật ra là vô cùng và luôn là một khái niệm có tính tương đối. 24 giờ với người này là đủ hoặc thừa, nhưng với người kia lại là thiếu, để mà không bao giờ có thời gian chết. Đời sống lúc này vẻ như người ta lo thừa hơn là lo thiếu: trẻ thừa cân, nhà thừa tiện ích, thông tin thừa mứa… Nhưng nếu điềm tĩnh ra, chúng ta sẽ thấy: tận cùng của thừa chính là thiếu. Trong đó, đáng lo nhất là thiếu đi động lực sống, cống hiến và một bộ lọc đủ mạnh để ngăn ngừa được sự tấn công của những “mã độc” vốn đầy rẫy trên mạng cũng như trong đời sống.
Con đường làm khoa học của chị đã bao giờ phải giằng xé giữa thừa và thiếu?
Lúc mới ra nghề, tôi từng thiếu tiền vì lương giảng viên không đủ để trang trải cuộc sống và giúp bố mẹ lo cho hai em lên thành phố ăn học, nên từng buộc lòng phải rời trường, đầu quân cho doanh nghiệp và mất tới 9 tháng sống trong môi trường “việc nhẹ, lương cao” nhưng gần như mất đi hoàn toàn động lực tạo ra cái mới. Kể mà chịu được thiếu tiền, hay thiếu gia đình, quê hương như quãng thời gian sau này tôi du học tại Anh, thì chắc hẳn các lựa chọn cho con đường khoa học của tôi sẽ thẳng hơn và dứt khoát hơn; làm khoa học tập trung hơn, thuận lợi hơn, tại những lab ở nước ngoài vốn đồng bộ về ê kíp, thiết bị cùng quy trình khép kín hoàn hảo từ đầu vào tới đầu ra… Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, 9 tháng làm cho doanh nghiệp ấy tuy có lúc vô vị nhưng cũng không phải là vô nghĩa vì nó giúp mở rộng tầm mắt của mình về đầu ra của những sáng chế, nhu cầu của doanh nghiệp… Và đất nước có đang phát triển, có thiếu những điều kiện cần và đủ, thì mình mới càng có thêm động lực vượt khó, khám phá những khả năng tiềm ẩn ở mình hơn…

Ở vào những thời điểm hoang mang và bế tắc của sáng tạo, chị đã tìm cách “tái sinh” cảm hứng sáng tạo của mình thế nào?
Trong sự nghiệp nghiên cứu của mình, tôi cũng có đôi ba lần “làm lại từ đầu”. Làm nghiên cứu thực nghiệm như bọn tôi, quan trọng nhất là phải có phòng thí nghiệm. Đã đôi lần tôi gầy dựng nhóm nghiên cứu, cơ sở vật chất nghiên cứu rồi bị dịch chuyển, làm lại từ đầu, mua sắm lại từng cái ống nghiệm, đũa khuấy. Đối với tôi mà nói, nó như chim mất tổ. Nản và mất động lực ghê lắm. Mỗi lần như thế, cái còn lại là nội lực tự thân, sức mạnh của trí tuệ, kiến thức và đam mê khoa học. Tôi lại cặm cụi gầy dựng lại và lại thực hiện các dự án tốt hơn, phát triển mạnh hơn. Mình luôn tin vào thế năng càng lớn, động lực càng mạnh – nghĩa là càng thiếu thốn, càng khó khăn thì sức sáng tạo của con người càng mạnh mẽ.
Ngoài những nỗ lực tự thân, sự chung tay của xã hội trong bối cảnh làm nghiên cứu khoa học ở VN có ý nghĩa thế nào?
Dự án VINIF (Quỹ đổi mới sáng tạo Vingroup) đã thực sự giúp nhóm tạo ra một nền tảng nghiên cứu cho định hướng vật liệu aerogel. Việc đầu tư R&D (nghiên cứu và phát triển) ngay tại doanh nghiệp, hoặc tài trợ kinh phí cho các đơn vị làm công tác R&D phát triển các công nghệ nền như VINIF đều góp phần thúc đẩy mạnh sự phát triển khoa học công nghệ của một đất nước.

Có thể tìm thấy triết lý sống nào từ những thuật ngữ chuyên môn đặc thù gắn liền với công việc của chị: công nghệ sấy thăng hoa, kỹ thuật tầng sôi…?
Thể rắn, khi chuyển sang thể khí (thay vì thể lỏng), sẽ đảm bảo cho việc cấu trúc vật liệu được giữ nguyên, ấy là giá trị của công nghệ sấy thăng hoa. Cái cần nhất cho vật liệu cách nhiệt là càng chứa nhiều không khí càng tốt. Khi vật liệu càng rỗng càng nhẹ, bề mặt của nó càng có cơ hội “ghi bàn” nhờ giàu năng lực hấp thu hơn. Xử lý nước thải, sự cố dầu tràn, dệt nhuộm… cần đến những vật liệu có độ rỗng cao là vì vậy. Sự trống rỗng, theo đó, có thể coi như một cơ hội để được lấp đầy, để được thẩm thấu cái mới, cái khác, cái ngoài mình. Làm sáng tạo, với tôi, trước khi được lấp đầy cũng cần lắm, sự trống rỗng hóa mình để mở lòng đón nhận cái mới.
Kỹ thuật tầng sôi cũng mang tới một triết lý khác với cách nghĩ thông thường. Trong 3 trạng thái tồn tại của vật liệu: tĩnh (đứng yên), lôi cuốn (bị đẩy lên), lơ lửng (đẩy lên, rớt xuống, lại được đẩy lên, cứ thế…) thì lơ lửng mới được cho là trạng thái ổn định nhất, vì nó giúp cho vật liệu giữ được độ rỗng ổn định nhất để có cơ hội tiếp xúc nhiều nhất với không khí.

Thường chị có khó ngủ không, trước những thao thức sáng tạo? Giấc mơ nào thường trở đi trở lại?
Vì luôn muốn trải mình rộng ra trên nhiều đầu việc và đa dạng hướng quan tâm, và tương ứng với những định hướng sản phẩm khác nhau sẽ đòi hỏi những khối kiến thức khác nhau; lại thêm cái bệnh cầu toàn… nên rất nhiều khi tôi bị stress, suy giảm trí nhớ… vì luôn cảm thấy không đủ thời gian cho những việc mình muốn làm.
Lại cũng có những đêm mất ngủ vì… nản, khi những tâm huyết sáng tạo của mình khó tìm được đầu ra và điểm chạm với nhà sản xuất và văn hoá doanh nghiệp: cái lợi cho môi trường không tỷ lệ thuận với lợi nhuận của doanh nghiệp, nên đây đó ít nhiều còn lắm nỗi thờ ơ; triết lý phát triển bền vững chưa hẳn đã nhận được sự đồng thuận, đồng hành của cả xã hội và của các nhà hoạch định chính sách để có thể cho ra các giải pháp đồng bộ…
Tôi hay mơ mình bay được lắm. Hoặc đến một con suối có rất nhiều cá, cứ với tay là bắt được nó. Và mỗi lúc mất ngủ, lại luôn tự an ủi mình rằng: “Chúng ta còn triệu đêm để ngủ trong lòng đất”, như ai kia từng nói…


NVCC
Bài viết trên Báo Thanh niên
Khoa học mở (Open science) là chủ đề quan trọng và có nhiều góc nhìn khác nhau trong thời đại chuyển đổi số khi tri thức nhân loại ngày càng rộng mở và cần được chia sẻ. Khuyến nghị về Khoa học mở của UNESCO định nghĩa: Khoa học mở là một kiến trúc tổng thể bao gồm những sự dịch chuyển và thực thi có mục đích làm cho tất cả tri thức khoa học đa ngôn ngữ trở thành có thể tự do truy cập, sử dụng và tái sử dụng bởi mọi người, nhằm nâng cao sự hợp tác và chia sẻ thông tin vì lợi ích của khoa học, cộng đồng, và mở ra các quy trình kiến tạo, đánh giá và truyền thông tri thức khoa học tới đa dạng các nhóm xã hội.
Việt Nam đã có những bước đầu quan tâm đến Khuyến nghị này, khi Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Hội thảo “Khoa học mở – Khuyến nghị của UNESCO: Cơ hội và thách thức với Việt Nam” vào ngày 20/10/2021. Đây là khái niệm mới và sẽ cần nhiều thời gian để cộng đồng khoa học nói riêng và xã hội nói chung hiểu hơn về các xu thế trên thế giới và tìm ra các quy chế hợp lý cho chúng ta.
Nhân ngày Khoa học Công nghệ Việt Nam 18/05/2023, hưởng ứng tinh thần của UNESCO nhằm lan tỏa nhận thức về khoa học mở trong cộng đồng, Trung tâm Quốc tế Đào tạo và Nghiên cứu Toán học (ICRTM) cùng với Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF), phối hợp với Trung tâm Vật lý quốc tế (ICP), Trung tâm thông tin – Tư liệu Viện HL KH & CN VN tổ chức Hội thảo với chủ đề:
KHOA HỌC MỞ DƯỚI CÁC GÓC NHÌN
1. Thời gian: 9h00 – 12h00, thứ Năm, ngày 18 tháng 05 năm 2023
2. Địa điểm: Hội trường Hoàng Tụy, Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
3. Chương trình Hội thảo: Hội thảo được tổ chức với nội dung chính là các Bài giảng đại chúng về các chủ đề liên quan đến khoa học mở, được xã hội quan tâm. Đặc biệt, phần Tọa đàm giữa các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau về chủ đề “Khoa học Mở dưới các góc nhìn” sẽ mang đến cho người nghe những quan điểm mới và đầy thú vị.
Phần Bài giảng đại chúng
𝐵𝑎̀𝑖 𝑔𝑖𝑎̉𝑛𝑔 01: 𝐷𝑢̛̃ 𝑙𝑖𝑒̣̂𝑢 𝐾ℎ𝑜𝑎 ℎ𝑜̣𝑐 𝑀𝑜̛̉ – 𝐺𝑆.𝑇𝑆𝐾𝐻. 𝐻𝑜̂̀ 𝑇𝑢́ 𝐵𝑎̉𝑜.

GS.TSKH. Hồ Tú Bảo nghiên cứu và giảng dạy về Trí tuệ nhân tạo (AI), tập trung vào Học máy (machine learning) hơn bốn mươi năm qua. GS từng làm việc tại Viện Công nghệ Thông tin, Viện Khoa học và Công nghệ Tiến tiến Nhật Bản. GS tham gia nhiều sự kiện và hoạt động khoa học quốc tế và là một trong những nhà khoa học đầu ngành. Hiện nay, GS đang công tác tại Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán.
𝐵𝑎̀𝑖 𝑔𝑖𝑎̉𝑛𝑔 02: 𝐻𝑢̛𝑜̛́𝑛𝑔 𝑛𝑔ℎ𝑖𝑒̂𝑛 𝑐𝑢̛́𝑢 𝑘ℎ𝑜𝑎 ℎ𝑜̣𝑐 ℎ𝑜̣̂𝑖 𝑡𝑢̣ 𝑣𝑎̀ 𝑣𝑎𝑖 𝑡𝑟𝑜̀ 𝑐𝑢̉𝑎 𝑣𝑎̣̂𝑡 𝑙𝑦́ 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑠𝑖𝑛ℎ ℎ𝑜̣𝑐 𝑡𝑖𝑒̂́𝑛 ℎ𝑜́𝑎 – 𝐺𝑆.𝑇𝑆. 𝑁𝑔𝑢𝑦𝑒̂̃𝑛 𝑇ℎ𝑒̂́ 𝑇𝑜𝑎̀𝑛.

GS.TS. Nguyễn Thế Toàn có thành tích nghiên cứu rất thành công khi đã xuất bản nhiều báo cáo chuyên ngành trên các tạp chí uy tín hàng đầu thế giới: Nature, Physical Review Letter, Review of Modern Physics, ba cuốn sách viết chung ở các nhà xuất bản nổi tiếng Princeton University Press, Oxford University Press, và Wiley. Hiện nay, GS đang là trưởng Khoa Vật lý, trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội.
𝐵𝑎̀𝑖 𝑔𝑖𝑎̉𝑛𝑔 03: 𝐾ℎ𝑜𝑎 ℎ𝑜̣𝑐 𝑚𝑜̛̉: 𝑔𝑜́𝑐 𝑛ℎ𝑖̀𝑛 𝑙𝑖̣𝑐ℎ 𝑠𝑢̛̉, 𝑘ℎ𝑢𝑦𝑒̂́𝑛 𝑛𝑔ℎ𝑖̣ 𝑐𝑢̉𝑎 𝑈𝑁𝐸𝑆𝐶𝑂, 𝑙𝑖𝑒̂𝑛 ℎ𝑒̣̂ 𝑣𝑜̛́𝑖 𝑉𝑖𝑒̣̂𝑡 𝑁𝑎𝑚 – 𝐶ℎ𝑢𝑦𝑒̂𝑛 𝑔𝑖𝑎 𝑁𝑔𝑢𝑦𝑒̂̃𝑛 𝑉𝑜̃ 𝐻𝑢̛𝑛𝑔.

Chuyên gia Nguyễn Võ Hưng là nghiên cứu viên chính tại Viện Chiến lược và Chính sách KHCN, thuộc Học viện KHCN và ĐMST, Bộ KH&CN, có bằng Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1993 và Đại học Lancaster, Anh vào năm 1997. Đặc biệt, chuyên gia đã tham dự phiên họp chuyên gia liên chính phủ về góp ý xây dựng Dự thảo Khuyến nghị khoa học mở của UNESCO. Đến với Hội thảo, chuyên gia sẽ chia sẻ về các khía cạnh liên quan đến chính sách cho một nền khoa học mở phát triển tại Việt Nam.
Phần Tọa đàm
Chuyên mục Tọa đàm với các khách mời: GS.TSKH. Hồ Tú Bảo, GS.TS. Nguyễn Thế Toàn, Chuyên gia Nguyễn Võ Hưng, PGS.TSKH. Phan Thị Hà Dương, TS. Nguyễn Nhật Quang, Chuyên gia Nguyễn Trọng Khánh.
Chuyên gia Nguyễn Trọng Khánh: Trưởng phòng Hạ tầng và Dữ liệu số, Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Thông tin & Truyền thông. Trong nhiều năm qua, chuyên gia chủ trì trong việc xây dựng chính sách, quản lý nhà nước về dữ liệu trong phát triển chính phủ số, xúc tiến thúc đẩy dữ liệu mở của cơ quan nhà nước phục vụ người dân, doanh nghiệp.
TS. Nguyễn Nhật Quang: Viện trưởng Viện khoa học và công nghệ VINASA, Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần công nghệ phần mềm Hài Hòa. Hoạt động chính hiện nay của TS bao gồm nghiên cứu và giảng dạy về chuyển đổi số và đô thị thông minh, tư vấn chính sách chuyển đổi số các tổ chức nhà nước và tư nhân.
Chuyên mục tọa đàm “Khoa học mở dưới các góc nhìn” với sự góp mặt của đa dạng khách mời, từ các chuyên gia hoạch định chính sách đến từ Bộ KHCN, Bộ TTTT, các nhà quản lý và chuyên gia đến từ doanh nghiệp đến các nhà khoa học có uy tín ở Việt Nam đến từ các Viện nghiên cứu, hứa hẹn sẽ mang đến cho người nghe những khía cạnh, quan điểm và ý kiến đa chiều về Khoa học mở – một khái niệm, lĩnh vực đang còn rất mới mẻ, nhận được nhiều sự quan tâm nhưng cũng không ít tranh luận. Các diễn giả sẽ trả lời và trao đổi với các câu hỏi, các phản biện từ tất cả đại biểu tham dự trực tiếp cũng như thông qua kênh trực tuyến ngay tại sự kiện.
Bài viết đưa tin về sự kiện: https://kienthuc.net.vn/…/khoa-hoc-mo-duoi-cac-goc-nhin…
Hưởng ứng tinh thần của UNESCO nhằm lan tỏa nhận thức về khoa học mở trong cộng đồng, Trung tâm Quốc tế Đào tạo và Nghiên cứu Toán học (ICRTM) phối hợp với Trung tâm Vật lý Quốc tế (ICP), Trung tâm Thông tin – Tư liệu và Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VinIF) tổ chức Hội thảo với chủ đề: “KHOA HỌC MỞ DƯỚI CÁC GÓC NHÌN”
Sự kiện với sự tham gia của các giáo sư uy tín, các chuyên gia hoạch định chính sách từ Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông, và đại diện doanh nghiệp sẽ giới thiệu những khái niệm mới về Khoa học mở cùng các đặc điểm, lợi ích và các tiêu chí của nó: dữ liệu mở, hệ thống xuất bản mở, hạ tầng khoa học mở, nguồn lực giáo dục mở, phần cứng mở, phần mềm mã nguồn mở, tính mở đối với đa dạng hóa kiến thức, đánh giá mở và sự tiếp cận mở của các nhóm xã hội.
Ba bài giảng đại chúng sẽ giới thiệu các chủ đề quan trọng của Khoa học mở.
Đặc biệt, trong phần Tọa đàm Mở các chuyên gia sẽ trả lời trực tiếp các câu hỏi của khán giả về chủ đề rất thời sự này nhằm mang đến cho người nghe những quan điểm và góc nhìn khác nhau.
Thời gian: 9h00 – 12h00, thứ Năm, ngày 18 tháng 05 năm 2023.
Địa điểm: Hội trường Hoàng Tụy, Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
Thành phần tham dự:
– Đại diện Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
– Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ;- Đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông;
– Đại diện Ủy ban UNESCO;- Lãnh đạo Viện Toán học, Viện Vật lý cùng các Viện, Trường khác;
– Lãnh đạo Trung tâm Quốc tế Đào tạo và Nghiên cứu Toán học (ICRTM), Trung tâm Vật lý Quốc tế (ICP);
– Lãnh đạo Quỹ đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF);
– Lãnh đạo Trung tâm Thông tin – Tư liệu (ISI-VAST);
– Đại diện các cơ quan có liên quan khác;
– Các nhà khoa học, các bạn trẻ quan tâm đến Khoa học Mở.
Chương trình Hội thảo:
Bài giảng đại chúng:
– Bài giảng 01: Dữ liệu Khoa học Mở – GS.TSKH. Hồ Tú Bảo.
– Bài giảng 02: Vật lý trong sinh học tiến hóa – GS.TS. Nguyễn Thế Toàn.
– Bài giảng 03: Chuyên gia Nguyễn Võ Hưng.
Chuyên mục Tọa đàm với các khách mời: GS.TSKH. Hồ Tú Bảo, GS.TS. Nguyễn Thế Toàn, Chuyên gia Nguyễn Võ Hưng, PGS.TSKH. Phan Thị Hà Dương, TS. Nguyễn Nhật Quang, Chuyên gia Nguyễn Trọng Khánh.

Các chuyên gia, diễn giả:
– GS.TSKH. Hồ Tú Bảo: Giám đốc Phòng thí nghiệm Khoa học dữ liệu, Viện Nghiên cứu Cao cấp về toán.
– GS.TS. Nguyễn Thế Toàn: Trưởng Khoa Vật lý, trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội.
– Chuyên gia Nguyễn Võ Hưng: Trưởng ban Chính sách Đổi mới sáng tạo, Học viên Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ.
– PGS.TSKH. Phan Thị Hà Dương: Phó GĐ Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Toán học Quốc tế (UNESCO), Viện Toán học – VAST; GĐ ĐH Quỹ Đổi mới sáng tạo VINIF.
– TS. Nguyễn Nhật Quang: Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ VINASA, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Công nghệ Phần mềm Hài Hòa.
– Chuyên gia Nguyễn Trọng Khánh: Trưởng phòng Hạ tầng và Dữ liệu số, Cục Chuyển đổi số Quốc gia, Bộ Thông tin và Truyền thông.
Ngoài ra, tại sự kiện sẽ có trưng bày một số mô hình tính toán và sách báo khoa học thường thức.
Hân hạnh được đón tiếp các quý vị đại biểu tại Sự kiện!
“LÀM CHỦ CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO, LẮP RÁP LÀ TIỀN ĐỀ QUAN TRỌNG ĐỂ XÂY DỰNG DÂY CHUYỀN SẢN XUẤT PIN SẠC LI-ION TRONG TƯƠNG LAI”
Xu hướng phát triển pin lithium-ion (Li-ion) ứng dụng trong các thiết bị tiêu thụ điện là tất yếu trên thế giới và Việt Nam. Việc nghiên cứu làm chủ công nghệ, dây chuyền lắp ráp pin sạc Li-ion và tiến tới xây dựng mô hình sản xuất công nghiệp đặt ra vai trò rất quan trọng của những nhà khoa học, các tổ chức và doanh nghiệp đồng hành. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang dần làm chủ công nghiệp sản xuất xe điện với những lợi ích môi trường to lớn, tiết giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, việc tự chủ sản xuất pin sạc Li-ion đóng vai trò cốt lõi để có thể bắt kịp thế giới về công nghệ, hàm lượng tri thức và các giá trị kinh tế bền vững.
Dự án “Ứng dụng quy trình tổng hợp vật liệu điện cực từ vỏ trấu để sản xuất thử nghiệm pin sạc Li-ion 4V dạng cúc áo (coin cell) và dạng túi (pouch cell)” do PGS.TS. Lê Mỹ Loan Phụng làm chủ nhiệm (CNDA) và trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM (đơn vị chủ trì) được thực hiện từ năm 2020, đến nay đã nghiệm thu thành công. Dự án nhằm nghiên cứu chế tạo, lắp ráp các loại pin sạc với kiểu dáng khác nhau từ những vật liệu tự tổng hợp được trong nước, đặc biệt là sử dụng nguyên liệu chế tạo điện cực từ vỏ trấu – một phụ phẩm nông nghiệp rất phổ biến ở Việt Nam.
Sau hai năm triển khai, dự án đã đạt được những kết quả nổi bật như sau:
Công bố 05 công trình nghiên cứu có chất lượng cao trên các tạp chí quốc tế, trong đó có 03 bài thuộc tạp chí Q1, 02 bài thuộc tạp chí Q2, đóng góp chung vào sự phát triển công nghệ sản xuất pin Li-ion trên thế giới;
Công bố 04 công trình nghiên cứu trên tạp chí cấp quốc gia;
Sáng chế về quy trình lắp ráp pin sạc Li-ion từ vỏ trấu: 01 sáng chế đã có quyết định chấp nhận đơn;
Sản xuất ở quy mô phòng thí nghiệm và tiến tới sản xuất ở quy mô pilot vật liệu chế tạo điện cực pin sạc Li-ion từ vỏ trấu;
Sản xuất, lắp ráp và thử nghiệm thành công 50 pin sạc dạng cúc áo CR-2032, 50 pin sạc dạng túi (pouch cell);
Các kết quả nghiên cứu, sản xuất, thử nghiệm, quy trình và bảng đánh giá đã được hội đồng chuyên gia đầu ngành thẩm định.
Kết quả nghiên cứu của dự án đã tạo cơ sở cho sự phát triển các sản phẩm công suất nhỏ, gọn sử dụng pin sạc Li-ion như nguồn điện cung ứng: các thiết bị y tế (máy trợ thính, máy hỗ trợ tim, áo chống cháy thông minh), nguồn dự phòng ứng dụng trong thiết bị điện tử (máy tính) v.v.
PGS.TS. Lê Mỹ Loan Phụng (CNDA) chia sẻ: “Sự phát triển bùng nổ của lĩnh vực xe điện những năm gần đây đã thúc đẩy công nghệ pin sạc Li-ion cải tiến không ngừng để đáp ứng các tiêu chí về giá thành, an toàn và tính bền vững. Nghiên cứu tạo ra vật liệu điện cực cho pin sạc từ vỏ trấu là một giải pháp giúp giảm giá thành của pin sạc, thông qua tận dụng các phụ phế phẩm nông nghiệp để tạo ra sản phẩm ứng dụng có giá trị cao. Đây là tiền đề quan trọng đánh dấu sự phát triển của công nghệ chế tạo và lắp ráp pin sạc Li-ion tại Việt Nam. CNDA đã nghiên cứu về lĩnh vực pin sạc từ năm 2010 và ấp ủ dự định phát triển, tự chủ công nghệ sản xuất, lắp ráp và ứng dụng tại Việt Nam từ nhiều năm nay. Thông qua chương trình tài trợ Dự án Khoa học Công nghệ của Quỹ Đổi mới Sáng tạo VinGroup (VINIF), dự án đã có một bước tiến lớn để hiện thực hóa các ý tưởng phát triển từ phòng thí nghiệm. Đồng thời, nhiều cơ hội trong việc hợp tác với các doanh nghiệp để thương mại hóa sản phẩm cũng được mở ra.”
Xin chúc mừng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM và nhóm nghiên cứu của PGS.TS. Lê Mỹ Loan Phụng!!!
Tìm hiểu thêm về dự án tại đây: https://vinif.org/annual/vinif-2020-ncud-da039-ung-dung-quy-trinh-tong-hop-vat-lieu-dien-cuc-tu-vo-trau-de-san-xuat-thu-nghiem-pin-sac-li-ion-4-v-dang-cuc-ao-coin-cell-va-dang-tui-pouch-cell/

Tại sự kiện Ngày Toán học quốc tế 2023: “Toán học cho mọi người” do Viện Toán học, Trung tâm Toán Unesco, Tạp chí Pi và Trung tâm Thông tin – Tư liệu phối hợp đồng tổ chức, TS. Nguyễn Quý Hà đã trình bày Bài giảng đại chúng “Toán học đằng sau các mô hình trí tuệ nhân tạo”.
Bài giảng đã giới thiệu một số khái niệm toán học cơ bản được sử dụng trong các mô hình trí tuệ nhân tạo (TTNT) hiện đại như kiến trúc mạng nơ-ron, hàm tổn thất, phương pháp tối ưu. Đặc biệt, bài giảng đã gợi ý một số hướng nghiên cứu mở để tạo cơ sở toán học cho TTNT. “𝑁ℎ𝑢̛ 𝑚𝑜̣𝑖 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 đ𝑎̃ 𝑏𝑖𝑒̂́𝑡, 𝑡ℎ𝑜̛̀𝑖 𝑔𝑖𝑎𝑛 𝑣𝑢̛̀𝑎 𝑞𝑢𝑎 𝑇𝑇𝑁𝑇 đ𝑎̃ 𝑐𝑜́ 𝑛ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑏𝑢̛𝑜̛́𝑐 𝑝ℎ𝑎́𝑡 𝑡𝑟𝑖𝑒̂̉𝑛 𝑟𝑎̂́𝑡 𝑙𝑜̛́𝑛. 𝑉𝑒̂̀ 𝑚𝑎̣̆𝑡 𝑢̛́𝑛𝑔 𝑑𝑢̣𝑛𝑔, 𝑇𝑇𝑁𝑇 đ𝑎̃ 𝑡𝑎̣𝑜 𝑟𝑎 𝑛ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑢𝑎̣̂𝑡 𝑡𝑜𝑎́𝑛 𝑐ℎ𝑎̣𝑦 𝑟𝑎̂́𝑡 ℎ𝑖𝑒̣̂𝑢 𝑞𝑢𝑎̉. 𝑇𝑢𝑦 𝑛ℎ𝑖𝑒̂𝑛, 𝑡𝑎̣𝑖 𝑠𝑎𝑜 𝑇𝑇𝑁𝑇 ℎ𝑖𝑒̣̂𝑢 𝑞𝑢𝑎̉ 𝑣𝑎̀ 𝑙𝑎̀𝑚 𝑡ℎ𝑒̂́ 𝑛𝑎̀𝑜 đ𝑒̂̉ 𝑛𝑜́ 𝑙𝑢𝑜̂𝑛 𝑙𝑢𝑜̂𝑛 𝑐ℎ𝑎̣𝑦 đ𝑢́𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑖̀ 𝑐𝑎̂̀𝑛 𝑟𝑎̂́𝑡 𝑛ℎ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑐𝑎́𝑐 𝑛𝑔ℎ𝑖𝑒̂𝑛 𝑐𝑢̛́𝑢 𝑙𝑦́ 𝑡ℎ𝑢𝑦𝑒̂́𝑡 𝑡𝑜𝑎́𝑛 ℎ𝑜̣𝑐 𝑐ℎ𝑎̣̆𝑡 𝑐ℎ𝑒̃ ℎ𝑜̛𝑛” TS. Hà chia sẻ.
Dựa trên bài báo nghiên cứu “The Mathematics of Artificial Intelligence” của tác giả Gitta Kutyniok, TS. Hà cũng đưa ra 04 hướng nghiên cứu có thể tạo ra cơ sở toán học cho TTNT. Đó là:
𝑇𝑖́𝑛ℎ 𝑏𝑖𝑒̂̉𝑢 𝑑𝑖𝑒̂̃𝑛 (𝐸𝑥𝑝𝑟𝑒𝑠𝑠𝑖𝑣𝑖𝑡𝑦): Lượng hóa khả năng xấp xỉ một lớp hàm số nào đó của các kiến trúc mạng nơ-ron khác nhau?
𝐾ℎ𝑎̉ 𝑛𝑎̆𝑛𝑔 ℎ𝑜̣𝑐 (𝐿𝑒𝑎𝑟𝑛𝑖𝑛𝑔): Khi nào và tại sao các phương pháp tối ưu như SGD lại hội tụ đến một cực trị địa phương “tốt”?
𝐾ℎ𝑎̉ 𝑛𝑎̆𝑛𝑔 𝑡𝑜̂̉𝑛𝑔 𝑞𝑢𝑎́𝑡 ℎ𝑜́𝑎 (𝐺𝑒𝑛𝑒𝑟𝑎𝑙𝑖𝑧𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛): Khi nào và tại sao các mô hình Ai có khả năng tổng quát hóa tốt trên dữ liệu mới mà không bị overfit?
𝑇𝑖́𝑛ℎ 𝑔𝑖𝑎̉𝑖 𝑡ℎ𝑖́𝑐ℎ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 (𝐸𝑥𝑝𝑙𝑎𝑖𝑛𝑎𝑏𝑖𝑙𝑖𝑡𝑦): Mô hình Ai rút ra một kết luận dựa trên các đặc điểm nào của input?

Để trả lời các câu hỏi như trên, vai trò của Toán học là rất quan trọng. Các hướng nghiên cứu trên sẽ giúp giải thích và phát triển các mô hình TTNT hơn nữa. Bài giảng đại chúng của TS. Nguyễn Quý Hà đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, thảo luận từ các nhà toán học và nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Chi tiết bài giảng và phần thảo luận, bạn đọc vui lòng xem tại đây: https://www.facebook.com/bantin.khcn/videos/892597308478974/
𝐓𝐡𝐨̂𝐧𝐠 𝐭𝐢𝐧 𝐝𝐢𝐞̂̃𝐧 𝐠𝐢𝐚̉:
TS. Nguyễn Quý Hà hiện đang giữ chức vụ Giám đốc điều hành Viện Nghiên cứu Dữ liệu lớn, kiêm Giám đốc Khối Công nghệ Phân tích hình ảnh VinBigData. Tại đây, anh phụ trách nghiên cứu và phát triển các sản phẩm công nghệ mới ứng dụng trí tuệ nhân tạo và thị giác máy tính. Trước khi gia nhập Vingroup, TS. Hà làm việc tại Viện Nghiên cứu và Phát triển Viettel (Nay là Tổng công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel) với vai trò kỹ sư cao cấp về xử lý tín hiệu. Anh đã công bố 46 bài báo khoa học trên các tạp chí và tại các hội nghị hàng đầu thế giới về Xử lý ảnh và xử lý tín hiệu.
TS. Nguyễn Quý Hà tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên ngành Toán học; lấy bằng Thạc sĩ tại Viện công nghệ Massachusetts (MIT); bằng Tiến sĩ tại Đại học Illinois, Urbana-Champaign, Hoa Kỳ, đều về chuyên ngành Kĩ thuật điện và máy tính. Tiến sĩ cũng có 03 năm làm nghiên cứu hậu tiến sĩ tại đại học EPFL, Thụy Sĩ.
———————
————–
———
“Toán học đằng sau các mô hình trí tuệ nhân tạo” là một trong 02 bài giảng đại chúng nằm trong sự kiện “Toán học cho mọi người” nhằm hưởng ứng Ngày Toán học quốc tế 2023. Sự kiện đã diễn ra với chung kết cuộc thi “Bài giảng và bài viết về Toán học, mang tên Hoàng Tụy”, 02 bài giảng đại chúng và 02 nội dung xuyên suốt toàn sự kiện gồm Hội chợ và Triển lãm sách của Trung tâm Thông tin – Tư liệu, Alpha Book; Triển lãm poster Mathematical Moments.

Sự kiện được livestream trực tiếp trên trang Fanpage Viện Toán học – Institute of Mathematics
https://www.facebook.com/vientoanhoc (VAST),
Facebook Bản tin KHCN của Trung tâm Thông tin – Tư liệu: https://www.facebook.com/bantin.khcn.
Nguồn ảnh: Trung tâm Thông tin – Tư liệu, Viện Hàn lâm KHCNVN.
Dự án “Một số hướng mới của Giải tích điều hòa, Tối ưu và Điều khiển với ứng dụng vào phân tích dữ liệu và công nghiệp” do PGS. TSKH. Huỳnh Văn Ngãi (chủ nhiệm dự án) và Trường Đại học Quy Nhơn (tổ chức chủ trì) thực hiện vừa được nghiệm thu thành công sau ba năm triển khai.
Dự án nhằm giải quyết một số bài toán trong các lĩnh vực Giải tích và Toán học ứng dụng: Giải tích điều hòa hiện đại với ứng dụng trong xử lý tín hiệu; phát triển các thuật toán tối ưu để giải các bài toán tối ưu không lồi thực tế xuất hiện trong khoa học dữ liệu, khai phá dữ liệu, học máy và những lĩnh vực khác của khoa học ứng dụng; nghiên cứu thiết lập cách tiếp cận mới và hữu hiệu cho bài toán điều khiển số cho các hệ có kết nối mạng và ứng dụng các kết quả đạt được cho một số bài toán điều khiển thực tế trong tự động hóa, mạng robot, mạng hạ tầng, v.v.

Sau ba năm triển khai, dự án đã hoàn thành và được nghiệm thu với những kết quả như sau:
09 bài báo được công bố trên các tạp chí chuyên ngành thuộc danh mục ISI, xếp hạng Q1 và Q2, trong đó có một số bài nằm trong top 3% của lĩnh vực nghiên cứu.
Hướng dẫn 03 nghiên cứu sinh ngành Toán bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Trường Đại học Quy Nhơn.
Hướng dẫn 10 học viên cao học bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ Toán học với xếp loại Xuất sắc.
PGS. TSKH. Huỳnh Văn Ngãi, chủ nhiệm dự án, chia sẻ: “Ranh giới giữa toán học lý thuyết và toán học ứng dụng ngày càng trở nên mờ nhạt, không dễ để phân định rạch ròi. Nhiều thành tựu của toán học trước đây được coi là thuần túy lý thuyết, đã tìm thấy nhiều ứng dụng sâu sắc trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ; ngược lại, nhiều vấn đề xuất hiện trong các bài toán mang tính thực tiễn là động lực thúc đẩy cho những nghiên cứu mới về mặt lý thuyết. Điều đó như một sự trở về nguồn gốc ban đầu của toán học, là một sự thống nhất, tác động tương hổ giữa lý thuyết và ứng dụng. Dự án nghiên cứu của chúng tôi thuộc vào ba lĩnh vực của giải tích và toán học ứng dụng: tối ưu, điều khiển và giải tích điều hòa. Những vấn đề nghiên cứu của dự án là những vấn đề toán học xuất phát từ những bài toán thực tiễn thuộc các lĩnh vực machine learning, xử lý ảnh và tự động hóa, bao hàm trong chúng cả hai phương diện lý thuyết và ứng dụng. Những kết quả đạt được của dự án là sự đóng góp khoa học ý nghĩa vào các lĩnh vực nghiên cứu nói trên. Chương trình tài trợ dự án khoa học công nghệ thường niên của Quỹ VINIF cho các nhà khoa học Việt Nam là một sự đóng góp rất đáng kể, là động lực thúc đẩy sự phát triển nền khoa học và công nghệ nước nhà trong điều kiện hiện nay.”
Để tìm hiểu thông tin về dự án, vui lòng xem tại:
Dự án “Nghiên cứu phát triển công nghệ chế tạo cảm biến ảnh hồng ngoại nhiệt ứng dụng trong an ninh quốc phòng và dân dụng” do PGS.TS Nguyễn Trần Thuật (chủ nhiệm dự án) và Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội (tổ chức chủ trì) thực hiện.
Dự án nhằm nghiên cứu phát triển được công nghệ chế tạo cảm biến ảnh hồng ngoại nhiệt không làm lạnh, đồng thời minh chứng khả thi việc đầu tư nhà máy sản xuất quy mô công nghiệp cảm biến ảnh hồng ngoại nhiệt này cho nhu cầu trong nước và khu vực.
Phạm vi nghiên cứu của dự án:
Thiết kế mô phỏng quang học và vi điện tử
Thiết lập và tối ưu quy trình công nghệ chế tạo linh kiện
Thiết kế cơ khí điện tử và chế tạo thiết bị.
Sau ba năm triển khai, nhóm dự án đã hoàn thành và được nghiệm thu với kết quả ấn tượng:
02 công bố trên tạp chí khoa học quốc tế
03 đăng ký sở hữu độc quyền sáng chế tại Việt Nam, trong đó 01 đăng ký đã được cấp bằng sáng chế
08 báo cáo tại các hội nghị khoa học trong nước và quốc tế
02 quy trình chế tạo cảm biến ảnh nhiệt và nhiều quy trình chế tạo tại từng bước cụ thể
01 thiết kế vi mạch đọc mảng cảm biến ảnh
01 thiết kế và phương pháp sử dụng mạng neuron sâu và máy học tăng cường để tối ưu cấu trúc màng đang lớp hấp thụ hồng ngoại nhiệt
01 báo cáo kinh tế kỹ thuật khả thi dự án chế tạo cảm biến ảnh nhiệt (đặc biệt áp dụng cho cảm biến ảnh nhiệt thế hệ mới).
Cảm biến ảnh nhiệt các loại và camera ảnh nhiệt demo sử dụng cảm biến ảnh nhiệt đã chế tạo.


Đặc biệt, nhóm nghiên cứu đã phát triển tiếp một spinoff dựa trên việc đổi mới quy trình để chế tạo được các cảm biến ảnh nhiệt thế hệ mới có khả năng giảm thiểu sự phụ thuộc vào vi mạch. Giải pháp này đã lọt vào top 10 cuộc thi Thử thách Đổi mới sáng tạo của Qualcomm Việt Nam năm 2022 (QVIC2022).
PGS.TS Nguyễn Trần Thuật (chủ nhiệm dự án) chia sẻ “Trong quá trình thực hiện, nhóm dự án đã đi đến một quy trình chế tạo cải tiến, cho phép giảm tối thiểu được sự phụ thuộc vào vi mạch CMOS. Quy trình này có tiềm năng rất lớn trong giảm chi phí chế tạo, tăng cường được khả năng tích hợp với linh kiện tính toán phỏng não để xử lý ảnh, và có thể áp dụng cho dải bước sóng terahertz. Với sự đồng hành của Quỹ VINIF, nhóm nghiên cứu đã có thể tập trung nguồn lực vào kỹ thuật và được tiếp cận với vật tư linh kiện, vi điện tử, trình độ công nghệ và kỹ thuật quốc tế. Chúng tôi hy vọng VINIF sẽ tiếp tục đồng hành cùng nhóm nghiên cứu trong những giai đoạn sau của dự án.“
Website dự án: https://infrasen.vn/
Ngày 06/03 vừa qua, bạn Vũ Thị Oanh (sinh năm 1997), thủ khoa đầu ra của Đại học Bách Khoa Hà Nội, đã được nhận Học bổng Chính phủ Nhật Bản (MEXT) để theo học chương trình tiến sĩ tại Đại học Kobe.
Năm 2020, sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Vật liệu điện tử và Công nghệ nano, Oanh nhận học bổng của Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF) để theo học thạc sĩ tại Viện Đào tạo quốc tế về Khoa học Vật liệu (Đại học Bách Khoa Hà Nội). Hai năm sau, Oanh đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với số điểm luận văn đạt 9.8/10.
Với kinh nghiệm nghiên cứu được xây dựng từ những ngày còn là sinh viên đại học, Oanh đã đạt được những kết quả ấn tượng:
Thủ khoa đầu ra Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 2020
Thủ khoa xuất sắc thành phố Hà Nội năm 2020
Giải thưởng HONDA Y-E-S cho kỹ sư và nhà khoa học trẻ Việt Nam năm 2019
Tác giả chính của 3 công trình khoa học được công bố trên tạp chí quốc tế uy tín.
Tác giả chính/đồng tác giả của 4 bài báo hội nghị trong nước và quốc tế.
Vũ Thị Oanh chia sẻ: “Với nền tảng kiến thức được tiếp thu từ Đại học Bách Khoa Hà Nội, em hy vọng mình có thể học tập, nghiên cứu và đóng góp một phần nhỏ bé cho sự phát triển khoa học công nghệ của nước nhà. Ngành học Vật liệu điện tử và Công nghệ nano ở Việt Nam vẫn chưa được phổ biến, nên sau khi hoàn thành chương trình học tập trong nước với sự đồng hành của quý thầy cô tại Viện ITIMS, Đại học Bách Khoa Hà Nội và sự tài trợ của Quỹ VINIF, em muốn có cơ hội được học tập ở nước ngoài để nâng cao kiến thức chuyên môn. Đó là lý do để em quyết tâm chinh phục học bổng toàn phần chính phủ Nhật Bản và theo học chương trình sau đại học đặc biệt của Đại học Kobe. Con đường khoa học với biết bao gian nan, thử thách nhưng với sự ủng hộ, tin yêu của gia đình, bạn bè, thầy cô, và sự quyết tâm theo đuổi của bản thân, em hy vọng mình sẽ đạt được nhiều thành tích nghiên cứu, đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế để phục vụ cuộc sống.”

Để tìm hiểu thêm thông tin, vui lòng xem tại: https://laodong.vn/…/thu-khoa-dau-ra-dai-hoc-bach-khoa…
Dự án VAIPE: Hệ thống theo dõi và hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ thông minh ứng dụng AI và IoT cho người Việt – gọi tắt là VAIPE được thực hiện bởi Trung tâm Sức khỏe VinUni-Illinois, trường Đại học VinUni và Trung tâm BKAI, ĐH Bách Khoa Hà Nội với sự tài trợ của Quỹ VINIF.
VAIPE cung cấp ứng dụng di động giúp cảnh báo sớm bệnh lý nguy hiểm với chi phí thấp, dễ sử dụng và tiếp cận ở quy mô lớn. Giải pháp còn cho phép quản lý, phân tích dữ liệu sức khỏe cá nhân, tự động nhận dạng thuốc từ hình ảnh chụp đơn thuốc, viên thuốc, thói quen sử dụng thuốc, nhịp tim, huyết áp… nhằm đưa các khuyến cáo về việc sử dụng thuốc, tác dụng phụ và các cảnh báo khác. Bên cạnh đó, ứng dụng giúp phân loại các thiết bị đo y tế và nhận dạng các chỉ số đo sức khỏe, phát hiện bất thường về tim mạch. Người dùng cũng có thể yên tâm về việc bảo vệ dữ liệu cá nhân trên hệ thống.
Ngày 10/2, Trung tâm Sức khỏe Thông minh VinUni-Illinois, thuộc trường Đại học VinUniversity và Trung tâm nghiên cứu quốc tế về trí tuệ nhân tạo (BKAI) thuộc Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Bách Khoa Hà Nội và FPT Long Châu đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác chiến lược.

Hoạt động nhằm thúc đẩy nỗ lực chuyển đổi số của doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ cũng như góp phần bổ trợ cho hệ sinh thái chăm sóc sức khỏe kỹ thuật số của người Việt.
Thông tin chi tiết, vui lòng xem tại: https://vnexpress.net/fpt-long-chau-ung-dung-ai-vao-ban…
#VINIF#KhoahocCongNghe#VAIPE#Taitro
1. Dự án của GS.TS. Nguyễn Xuân Hùng, Đại học Công Nghệ TP. Hồ Chí Minh
🌏Dự án “Công nghệ in 3D trên nền tảng máy học sâu” do GS.TS Nguyễn Xuân Hùng (chủ nhiệm dự án) và Đại học Công Nghệ TP.HCM (tổ chức chủ trì) thực hiện từ năm 2019.
🎯Mục tiêu chung của dự án là phát triển một nền tảng thiết kế điện tử phục vụ trong công nghệ in 3D dựa trên sự kết hợp giữa công nghệ tối ưu hóa nhiều vật liệu, nhiều phân lớp sản phẩm in 3D, phương pháp học sâu thông qua bộ dữ liệu kết hợp thu được từ quá trình thiết kế, mô phỏng tối ưu hóa và kiểm định trong quá trình in 3D.

👉Phạm vi nghiên cứu của dự án bao gồm:
🔹Các cấu trúc rỗng hoặc composite sợi in 3D phù hợp một số loại vật liệu in hiện nay
🔹Các biên dạng tối ưu topology cấu trúc ứng dụng trong kỹ thuật
🔹Các giải thuật tối ưu hóa và học sâu ứng dụng trong in 3D
🔹Các giải pháp vật liệu in thay thế và gia cường.
🚩Sau ba năm triển khai, dự án đã được nghiệm thu với các kết quả ấn tượng:
✅19 bài báo được đăng trên tạp chí Q1;
✅01 App chương trình ứng dụng in 3D đã chạy thử nghiệm thành công (tải app tại App Store/Play Store: https://ht3dprint.com/);
✅04 đăng ký sáng chế, trong đó 03 sáng chế đăng ký tại USPTO (Mỹ) và 01 sáng chế tại Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam;
✅Hoàn thành 01 Bản thảo cuốn sách về in 3D;
✅Hỗ trợ đào tạo 02 học viên cao học và 06 NCS.

🌟Đặc biệt, cuối năm 2022, 01 sáng chế của dự án đã được Cơ quan Sở hữu Trí tuệ USPTO (Mỹ) cấp bằng bảo hộ.
👉GS. Nguyễn Xuân Hùng (chủ nhiệm dự án) chia sẻ: “Công nghệ in 3D ngày càng trở nên phổ biến và là một mắt xích quan trong cuộc cách mạng 4.0. Tôi đã theo đuổi công nghệ in 3D từ năm 2013 và năm 2019 dự án của chúng tôi đã có được sự đồng hành của VINIF. Với sự tài trợ của VINIF, dự án của chúng tôi đã đạt được 19 bài báo trên tạp chí Q1, 01 app chương trình ứng dụng, 04 sáng chế và có cơ hội kết nối với doanh nghiệp để thương mại hóa sản phẩm. Tôi hy vọng Quỹ VINIF sẽ luôn đồng hành và hỗ trợ các nhà khoa học lâu dài để triển khai các ý tưởng đổi mới sáng tạo, đóng góp cho sự phát triển của đất nước.”
🚩Thông tin chi tiết về dự án, vui lòng xem tại:
https://vinif.org/annual/vinif-2019-da04-cong-nghe-in-3d-tren-nen-tang-may-hoc-sau/
2. Dự án của PGS. Nguyễn Tấn Hưng, Đại học Đà Nẵng
🌍Dự án “Thông tin quang thông minh cho mạng dữ liệu cực lớn” do PGS.TS. Nguyễn Tấn Hưng (CNDA) & TS. Lê Thái Sơn (Đồng CNDA) và Trường ĐH Bách Khoa, ĐH Đà Nẵng (TCCT) thực hiện từ tháng 9 năm 2019.
👉Mục tiêu của dự án là thiết kế và phát triển hệ thống thông tin quang thông minh có dung lượng truyền dữ liệu cực lớn nhiều Terabit trên giây (10¹² bit/s) cho mạng Internet trong tương lai. Để đạt được mục tiêu này, dự án đã phát triển các kỹ thuật nhằm phát hiện và khắc phục các yếu tố làm suy giảm chất lượng hệ thống, bao gồm các méo dạng tín hiệu tuyến tính và phi tuyến, qua đó giúp hệ thống vượt qua các giới hạn Shannon phi tuyến (nonlinear Shannon limits) về dung lượng truyền thông tin.
Mạng Internet tương lai dựa trên công nghệ truyền dẫn và xử lý dữ liệu cực lớn.
🚩Trong dự án này, nhóm nghiên cứu đã đạt được các kết quả xuất sắc so với thuyết minh ban đầu như các công bố trên các tạp chí, hội nghị chuyên ngành hàng đầu trong lĩnh vực thông tin sợi quang, đặc biệt nhóm đã thiết lập bằng thực nghiệm truyền dữ liệu dung lượng đến 1200 Gigabit/s với hiệu suất phổ 5.25 bit/s/Hz chỉ bằng kỹ thuật tách sóng trực tiếp.
📌Vừa qua nhóm dự án đã có 01 patent được Cơ quan Sở hữu Trí tuệ USPTO (Mỹ) cấp bằng bảo hộ sau hơn một năm đăng ký. Với bằng độc quyền sáng chế đã được chấp nhận bảo hộ, nhóm dự án sẽ chuyển sang giai đoạn R&D để phát triển sản phẩm thương mại “smart optical transceiver” trong thời gian tới.
Patent của nhóm dự án đã được cấp bằng bảo hộ tại Mỹ.
👉Tính đến nay, dự án đã đạt được các kết quả như sau:
🔹06 bài báo tạp chí SCIE Q1; 01 bài báo kỷ yếu hội thảo A*; 01 bài báo kỷ yếu hội thảo quốc tế (đã đạt giải thưởng Best Paper Award).
🔹01 patent đã được cấp bằng bảo hộ tại Mỹ và 03 patents đã được chấp nhận đơn.
🔹Hỗ trợ đào tạo 03 nghiên cứu sinh.
👉PGS.TS. Nguyễn Tấn Hưng (CNDA) chia sẻ: “Trong khi các quỹ hay chương trình tài trợ nghiên cứu khác đi theo hướng ngày càng chặt trong các quy định, thủ tục, thì VINIF tạo điều kiện tối đa để các nhóm nghiên cứu phát huy khả năng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Trong dự án này, thay vì chỉ làm các nghiên cứu an toàn, có sẵn cho xong các sản phẩm đầu ra y như thuyết minh, nhóm chúng tôi đã có thể tiến hành các nghiên cứu có tầm ảnh hưởng hơn nhưng rủi ro cao mà không sợ thất bại, như đúng bản chất của quá trình nghiên cứu. Nhờ vậy, kết quả đạt được của dự án nằm ngoài sự mong đợi so với thuyết minh như các công bố trên các tạp chí, hội nghị chuyên ngành hàng đầu trong lĩnh vực thông tin sợi quang, hay như đã thiết lập bằng thực nghiệm một kỷ lục truyền dữ liệu dung lượng đến 1200 Gigabit/s với hiệu suất phổ 5.25 bit/s/Hz bằng kỹ thuật tách sóng trực tiếp. Đặc biệt, lần đầu tiên nhóm nghiên cứu được tiếp cận với quá trình đăng ký bằng độc quyền sáng chế, cần sự tham gia của hãng luật chuyên về sở hữu trí tuệ mà chi phí này không được chấp nhận ở các chương trình, hay quỹ tài trợ nghiên cứu nào trước đây. Dự án này của chúng tôi có sự đồng hành của Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng đã tạo mọi điều kiện tối đa để dự án được tiến hành thành công.”
Nhóm nghiên cứu-giảng dạy công nghệ mạng thông tin và truyền thông iCOMM (TRT-ĐHĐN) tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.
👉Các cơ quan báo chí đưa tin về dự án:
📝Báo Nhân dân: https://nhandan.vn/du-an-thong-tin-quang-thong-minh-cho-man…
📝Báo Giáo dục Thời đại: https://giaoducthoidai.vn/dh-da-nang-co-cong-trinh-nghien-c…
📝Báo mới: https://baomoi.com/du-an-thong-tin-quang-tho…/c/44740587.epi
📝Tạp chí điện tử Kinh tế Công nghệ: https://vnmedia.vn/…/du-an-thong-tin-quang-thong-minh-cho-…/
📝Báo Đà Nẵng: https://www.baodanang.vn/…/dai-hoc-da-nang-co-cong-trinh-n…/
📝Đại học Đà Nẵng: https://www.udn.vn/…/du-an-thong-tin-quang-thong-minh-cho-m…
🚩Thông tin chi tiết về dự án, vui lòng xem tại:
https://vinif.org/…/thong-tin-quang-thong-minh-cho-mang-du…/