Suốt nhiều thế kỷ qua, giáo dục đại học luôn là một thiết chế quan trọng trong xã hội Việt Nam. Trong những năm gần đây, các thảo luận về triết lý và tư tưởng của giáo dục Việt Nam ngày càng trở trên sôi nổi, thu hút không chỉ các chuyên gia, những nhà lý luận, mà cả hàng triệu phụ huynh và học sinh. Các thảo luận diễn ra từ Nghị trường Quốc Hội cho đến không gian gia đình. Tuy vậy, đến nay, câu hỏi tưởng chừng như rất đơn giản “Triết lý giáo dục của Việt Nam là gì?” lại chưa thể có đáp án.
Dự án này đóng góp vào hành trình đi tìm triết lý giáo dục Việt Nam bằng việc nghiên cứu, lưu giữ, bảo tồn và phổ biến những di sản của Tinh thần Đại chúng – một tư tưởng chủ đạo của nền giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ, nhưng hiện nay đang dần bị lãng quên và thậm chí là đang bị hiểu sai. Mặc dù tinh thần làm cho nền đại học trở nên gần gũi với các tầng lớp nhân dân hơn, và trực tiếp phục vụ đời sống là tinh thần tương đối phổ biến tại nhiều quốc gia, nhưng lại được đẩy mạnh nhất tại các quốc gia thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa. Tại Việt Nam, tinh thần này lại mang những màu sắc riêng, được thể hiện thông qua rất nhiều chính sách và thực hành giáo dục đa dạng: xóa bỏ kỳ thi tuyển sinh đại học (1966-1970) và thay bằng chế độ cử tuyển; mở hệ đào tạo tại chức; rút ngắn nhiều chương trình đào tạo từ 4 năm xuống 3 năm; tổ chức 4-8 tuần lao động tập trung trong mỗi năm học và 10 tuần học quân sự cho cả khóa học; vận động sinh viên lao động, tăng gia sản xuất và tham gia khắc phục hậu quả thiên tai … Trong suốt thời kỳ này, các trường đại học hòa mình hoàn toàn vào hơi thở của thời cuộc; tại nhiều thời điểm, sinh viên và thầy giáo phải di tản về nông thôn và sống cùng với các tầng lớp nhân dân. Trong suốt thời kỳ này, đời sống chính là trường học.
Mặc dù tinh thần đại chúng trong thời kỳ chống Mỹ đã để lại nhiều di sản, nhưng không thể phủ nhận rằng chính tinh thần này vẫn đang hiện hữu hằng ngày trong sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học, và của xã hội Việt Nam hiện nay. Chiến dịch mùa hè xanh, chương trình đào tạo tại chức, hệ cao đẳng 3 năm, các công trình thanh niên (mà công viên Thống Nhất tại Hà Nội hiện nay là một biểu tượng) là những minh họa rõ nét. Hiện nay, nhà nước kêu gọi phát triển và thương mại hóa các sản phẩm khoa học – công nghệ; nhưng thú vị là hơn nửa thế kỷ trước, chính các thế hệ thầy giáo và sinh viên với tinh thần đại chúng cùng với kinh nghiệm thực tiễn phong phú góp nhặt được từ những chuyến đi sâu sát vào quần chúng, mặc dù luôn phải chật vật xoay sở với khoản ngân sách ít hỏi, đã phát triển được nhiều công nghệ quân sự lẫn dân sự có tính thực tiễn cao, góp phần tái lập hòa bình và tái thiết đất nước.
Dự án sẽ nghiên cứu tinh thần giáo dục đại chúng, sau đó tiến hành sưu tầm, lưu giữ những hiện vật (văn bản lưu trữ, hồi ký, lưu bút, tranh ảnh, đoạn phim) cũng như tái hiện lại ký ức (đoạn ghi âm/ghi hình những nhân chứng của thời kỳ này, những bữa cơm sinh viên, những dịp lao động tập thể) gắn liền với tinh thần đại chúng. Những di sản này sau đó sẽ được số hóa 3D và phổ biến rộng rãi đến công chúng dưới hình thức Bảo tàng ảo 3D.
Có hai lý do quan trọng khiến nhóm đề xuất dự án cân nhắc và quyết định tập trung vào Giai đoạn 1955-1975 và Tinh thần Đại chúng của giai đoạn này. Thứ nhất, những nhân chứng “trẻ nhất” đã trải qua những năm đầu của hệ thống giáo dục đại học trong giai đoạn này hiện đều đang ở độ tuổi trên 80. Trong khi đó, chính họ là một nguồn sử liệu quan trọng của một thời kỳ mang nhiều ý nghĩa đối với xã hội Việt Nam (do chiến tranh ác liệt và thường xuyên phải di tản nên những tài liệu lưu trữ chỉ phản ánh được một phần nhỏ lịch sử thời đại này). Thứ hai, Tinh thần Đại chúng là một giá trị tinh thần đặc trưng của nền đại học Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, khác hẳn với mô hình Đại học Tinh hoa phổ biến tại nhiều xã hội phương Tây.
Dự án này sẽ là bước khởi đầu quan trọng của một ý tưởng dài hơi nhằm nghiên cứu và lưu giữ các giá trị và thực hành giáo dục của nền đại học Việt Nam hiện đại, tiến đến hình thành Bảo tàng Giáo dục Việt Nam theo hình thức kết hợp thực tế với trực tuyến (hybrid).