Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ vô sinh cao trên thế giới. Theo nghiên cứu, tỷ lệ vô sinh ở các cặp vợ chồng trẻ Việt Nam hiện nay là 7.7%, trong đó tỷ lệ vô sinh thứ phát (vô sinh sau lần đầu có thai) đang gia tăng đến 15-20% sau mỗi năm và chiếm khoảng 50% các cặp vợ chồng vô sinh. Điều đáng chú ý là con số này càng ngày càng tăng qua các năm. Qua thống kê cho thấy độ tuổi vô sinh, hiếm muộn đang ngày càng trẻ hóa, gây ra nhiều lo ngại cho những cặp đôi trẻ hiện nay. Do đó, việc phát triển và tối ưu hóa các phương pháp điều trị vô sinh là vô cùng cần thiết cho sức khỏe cộng đồng hiện nay. Trong nhiều phương pháp hỗ trợ sinh sản, phương pháp trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) được đánh giá là một trong những phương pháp tiên tiến hiệu quả nhất trong điều trị vô sinh hiện nay tại các bệnh viện. Trưởng thành noãn trong ống nghiệm (In Vitro Maturation – viết tắt là IVM) là phương pháp lấy noãn chưa trưởng thành từ buồng trứng (chưa được kích thích bằng hormone) đem nuôi cấy trong môi trường chuyên biệt tại phòng thí nghiệm. Sau khi noãn trưởng thành có thể thực hiện thụ tinh ống nghiệm như bình thường. Phương pháp này nhằm tạo ra các tế bào noãn trưởng thành, phục vụ cho những quy trình hỗ trợ sinh sản khác. Từ năm 2017, Việt Nam trở thành nước thực hiện IVM nhiều và thành công nhất thế giới, được các bác sĩ từ Australia, Italy, Mỹ, Singapore… đến học. Ưu điểm của kỹ thuật IVM là ít xâm lấn, hạn chế đau đớn và giảm thiểu việc tiêm hormone cho bệnh nhân giúp giảm các nguy cơ biến chứng và tình trạng quá kích buồng trứng. Đặc biệt, đây là giải pháp lý tưởng cho những bệnh nhân không đáp ứng kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, kỹ thuật IVM còn tồn tại một số hạn chế. Đó là sự phát triển của noãn và tỷ lệ thụ thai thấp hơn so với noãn chưa trưởng thành được phát triển trong cơ thể người mẹ. Nguyên nhân là do quy trình IVM thiếu đi độ lặp lại, tính tự động hoá, đồng thời môi trường nuôi cấy bên ngoài cơ thể theo quy trình IVM thường quy không thể bắt chước hoàn toàn môi trường động với sự tương tác của các tế bào trong cơ thể. Trong dự án này, nhóm nghiên cứu đề xuất một nghiên cứu mang tính liên ngành nhằm cải tiến quy trình IVM thường quy sử dụng kết hợp công nghệ tự động hoá và công nghệ Organ-on-a-chip, một xu hướng công nghệ còn đang rất mới hiện nay. Nền tảng Organ-on-a-chip tạo ra một môi trường bắt chước tối đa môi trường sinh lý trong cơ thể người trên một con chip sinh học, tạo điều kiện trưởng thành noãn như trong cơ thể người mẹ, từ đó tăng hiệu suất trưởng thành. Trong giai đoạn đầu của dự án, nhóm nghiên cứu thực hiện đề xuất triển khai phát triển một hệ thống đa chức năng tự động hóa qui trình IVM thường qui để kiểm soát các điều kiện môi trường trưởng thành tế bào noãn và để phân tích theo thời gian thực quá trình phát triển của noãn. Đây là một hệ thống mới chưa có sản phẩm thương mại tương tự giúp tự động hóa các qui trình IVM, nâng cao tỷ lệ trưởng thành noãn, giảm thiểu các ảnh hưởng không mong muốn của môi trường ngoài và các thao tác của kỹ thuật viên tới sự phát triển của noãn và phôi. Trong giai đoạn tiếp theo của dự án, nhóm nghiên cứu sẽ phát triển một hệ thống chip sinh học nhằm tái tạo lại tối đa môi trường trong cơ thể nhằm tăng cường hiệu quả trưởng thành noãn. Kết quả thu được từ dự án này sẽ đem đến một nền tảng tự động và hiệu quả cho các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thường qui. Đồng thời, thành công của dự án sẽ mở ra định hướng nghiên cứu ứng dụng dựa trên các kết quả nghiên cứu cơ bản trong việc phát triển nền tảng organ-on-a-chip cho các qui trình hỗ trợ sinh sản nói riêng và hướng đến việc giải quyết và đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của xã hội hiện nay nói chung, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.